Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

Làm gì để phòng thoái hóa khớp?

Thoái hóa khớp là chứng bệnh thường gặp nhất trong các bệnh lý của khớp. Bệnh tiến triển thầm lặng, không có biểu hiện gì cho đến một mức độ tổn thương nhất định của sụn khớp mới gây nên các triệu chứng trên lâm sàng như đau khớp, cứng khớp, dính khớp, teo cơ quanh khớp,... gây khó khăn trong lao động, sinh hoạt, giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí là tàn tật. Mặc dù các yếu tố di truyền và lão hóa không thể điều chỉnh được nhưng chúng ta vẫn có thể giảm nguy cơ thoái hóa khớp nếu có tác động tích cực vào các yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối sống...

Truy tìm nguyên nhân
Nguyên nhân thực sự của bệnh thoái hóa khớp vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Các hiểu biết hiện tại cho rằng sụn khớp phải chịu lực quá tải (yếu tố cơ học tấn công trực tiếp lên bề mặt sụn) đồng thời gây nên sự hoạt hoá và sự giải phóng các chất trung gian hoá học (cytokine các enzyme) gây thoái giáng chất cơ bản (yếu tố gây viêm), sau đó gây phá hủy sụn khớp. Tuy nguyên nhân của bệnh chưa biết rõ nhưng người ta đã biết được một số yếu tố nguy cơ gây nên bệnh thoái hóa khớp, đó là:
Yếu tố di truyền: Thoái hoá khớp cũng như nhiều bệnh khác chịu chi phối rất lớn của di truyền, có những chủng tộc người có tỷ lệ thoái hoá khớp cao hơn các chủng tộc khác.
Lão hóa: Các tế bào sụn với thời gian lâu dần sẽ giảm khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi colagen và chất cơ bản của sụn làm cho chất lượng của sụn, tính đàn hồi, tính chịu lực bị giảm sút. Nói cách khác, thoái là hậu quả của quá trình lão hoá của sụn khớp, do đó tần số mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Với tuổi thọ trung bình ngày càng cao đồng nghĩa với số bệnh nhân bị bệnh thoái khớp ngày càng nhiều.
Yếu tố cơ học: Các vi chấn thương tích tụ lại nhiều lần (hiện tượng quá tải) là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình thoái hoá tăng nhanh. Hiện tượng quá tải hay gặp trong trường hợp như tư thế làm việc không hợp lý; tăng cân quá mức do béo phì, do nghề nghiệp đặc biệt là các chấn thương thể thao như khớp bàn tay, khớp khuỷu tay của công nhân vận hành búa máy, khoan cắt bê tông; khớp cổ chân của diễn viên balê; đĩa đệm cột sống của vận động viên cử tạ...
Yếu tố dinh dưỡng: Thừa cân, béo phì gây quá tải nên sụn khớp, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng, thiếu chất khoáng (mangan, zinc), một số vitamin làm ảnh hưởng đến chất lượng của sụn khớp.
Ngoài ra, các dị dạng bẩm sinh và rối loạn phát triển như loạn sản sụn; trật khớp háng bẩm sinh, biến dạng kiểu chân chữ X, chữ O; gù vẹo cột sống gây ra do những rối loạn làm thay đổi đặc tính của sụn và làm hư hại bề mặt khớp.
Cần làm gì để trì hoãn quá trình thoái hóa khớp?
Vì chưa biết rõ nguyên nhân của bệnh và bệnh diễn tiến âm thầm không triệu chứng một thời gian dài trước khi bộc lộ đầy đủ trên lâm sàng nên mục đích của phòng bệnh là tác động vào các yếu tố nguy cơ như đã nói trên càng sớm càng tốt. Nguyên tắc là làm chậm quá trình hủy hoại khớp, nhất là ngăn sự thoái hóa sụn khớp, duy trì khả năng vận động, cải thiện chất lựợng cuộc sống. Trong các yếu tố cần điều chỉnh thì yếu tố di truyền và yếu tố lão hoá là những yếu tố mà chúng ta không thể điều chỉnh được. Ngược lại, các yếu tố còn lại (yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối sống...) chúng ta có thể điều chỉnh được bằng các biện pháp sau:
Tránh cho khớp bị quá tải: tư thế làm việc hợp lý, không nên làm việc ở một tư thế kéo dài mà nên thay đổi tư thế thường xuyên, nên kết hợp những khoảng nghỉ ngắn 5-10 phút trong khi làm việc; giữ cân nặng ở mức hợp lý, giảm cân nếu béo phì; Tập thể dục thường xuyên và vừa sức như bơi lội, đạp xe đạp, đi bộ khoảng 30 -60 phút/ngày, tập dưỡng sinh, tập các động tác tập tăng cường sức mạnh của các cơ quanh khớp, làm giảm lực tác động trên bề mặt sụn.
Phát hiện và điều trị kịp thời các chấn thương do thể thao, do nghề nghiệp, sau đó là sử dụng các biện pháp lý liệu pháp, phục hồi chức năng để khớp trở về trạng thái sinh lý bình thường, tránh diễn biến xấu dẫn đến thoái hoá khớp. Với những người làm nghề có nguy cơ thoái hoá khớp cao thì tìm kiếm các biện pháp thích nghi với điều kiện làm việc, với nguyên tắc là tránh cho khớp ít bị quá tải nhất có thể.
Dinh dưỡng hợp lý: ăn uống đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhất là các chất khoáng, các vitamin như rau quả tươi, giàu các chất chống ôxy hoá.
Phát hiện và sửa chữa các dị dạng bẩm sinh, tư thế xấu, lệch trục khớp như chỉnh lại trục khớp, gọt giũa xương chày trong lệch trục khớp gối, sửa chữa lại các thiểu sản khớp háng bẩm sinh.
(Theo Suckhoedoisong.vn)

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN UNG THƯ

Các chuyên gia cảnh báo rằng khi có bất cứ sự thay đổi lớn nào về chức năng cơ thể và cảm giác bạn nên đi khám bác sĩ, đặc biệt là khi những thay đổi này kéo dài hoặc trở nên tồi tệ.
Sút cân không rõ nguyên nhân
Nếu bạn đang ăn kiêng hoặc luyện tập thì giảm cân là bình thường. Nhưng sẽ là không bình thường nếu bạn sút cân mà không có sự thay đổi nào trong sinh hoạt và nó có thể liên quan tới một vài loại ung thư bao gồm tuyến tụy và dạ dày.


Sốt kéo dài có thể là dấu hiệu sớm của ung thư máu như u lympho, bệnh bạch cầu. Hãy đi khám bác sĩ khi bạn bị sốt kéo dài vì thậm chí nếu đó không phải là dấu hiệu của ung thư thì cũng là dấu hiệu của bệnh nghiêm trọng.
Đau
Đau có nhiều nguyên nhân, đau đầu kéo dài có thể là dấu hiệu sớm của ung thư não  đau lưng có thể là dấu hiệu của ung thư trực tràng hoặc buồng trứng. Nếu bạn bị đau kéo dài hãy khám bác sĩ.
Ho nhiều
Nếu bạn bị ho hoặc khan giọng kéo dài không khỏi, đó có thể là dấu hiệu của ung thư phổi hoặc thanh quản. Cũng có khả năng bạn bị dị ứng thời tiết theo mùa, nhưng tốt nhất là nên đi kiểm tra để tìm rõ nguyên nhân.
Nổi u trong cơ thể
Nếu bạn thấy có u trên da, hãy khám da liễu. Hãy đặc biệt thận trọng với u trên ngực, tinh hoàn hoặc gần hạch bạch huyết. Đừng quá lo lắng nếu bạn thấy u trên cánh tay, chân, hoặc những bộ phận khác của cơ thể. Chúng có thể chỉ là những u nang bã nhờn vô hại.
Chảy máu bất thường
Chảy máu bất thường là một trong nhiều dấu hiệu của ung thư. Ho ra máu có thể là ung thư phổi, máu lẫn phân có thể là ung thư đại tràng hoặc trực tràng, tiểu ra máu có thể là ung thư bàng quang, chảy máu âm đạo kéo dài có thể là ung thư cổ tử cung và chảy máu ở núm vú có thể là ung thư vú.
Những thay đổi về chức năng bàng quang
Nếu bạn bị đau khi đi tiểu, có máu trong nước tiểu hoặc những thay đổi khác như tiểu nhiều hơn hoặc ít hơn bình thường, đó có thể là triệu chứng của ung thư bàng quang hoặc tiền liệt tuyến. Bên cạnh đó, nếu có những thay đổi kéo dài về chức năng đường ruột như tiêu chảy hoặc táo bón kéo dài, đây có có là triệu chứng của ung thư đại tràng. Bạn nên đi soi đại tràng để phát hiện bệnh sớm.
Vết loét không liền
Nếu bạn có những vết loét kéo dài có vẻ không khỏi hẳn, bạn nên tới bác sĩ kiểm tra. Các vết loét trong miệng có thể là dấu hiệu của ung thư miệng.
Những thay đổi trên da
Nếu bạn nhận thấy bất cứ sự thay đổi nào trên mụn cơm hay nốt ruồi ở cơ thể hoặc bất cứ một sự thay đổi nào khác trên da, đó có thể là dấu hiệu của bệnh u hắc tố, hãy tới bác sĩ kiểm tra. Bệnh có thể dễ điều trị nếu được phát hiện sớm.
Mệt mỏi
Mệt mỏi kéo dài mà nghỉ ngơi cũng không hết có thể là dấu hiệu của ung thư. Đây là một dấu hiệu khó đoán vì rất nhiều người cảm thấy mệt mỏi vì những nguyên nhân hoàn toàn khác nhau. Nhưng nếu bạn lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi, bạn nên đi khám.

(Theo Kienthucsuckhoe)

PHÒNG TRÁNH VÀ ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH

Rối loạn tiền đình (RLTĐ) biểu hiện bằng những cơn chóng mặt, do tổn thương hệ thần kinh của các vùng tai, tim mạch, mắt, tâm thần.
Trước đây, RLTĐ chỉ phát triển trong nhóm bệnh nhân trung niên nhưng hiện nay RLTĐ đã xuất hiện ở người trẻ tuổi (trên 20 tuổi). Mức nguy hại của RLTĐ là những bệnh nhân có bệnh lý đi kèm, như thiếu máu não hoặc tăng huyết áp sẽ có nguy cơ đột quỵ dẫn đến tử vong.

Cần đi khám để phát hiện chính xác bệnh
RLTĐ là triệu chứng rất hay tái phát, ảnh hưởng đến công việc và chất lượng cuộc sống. Có hai loại rối loạn tiền đình.
RLTĐ ngoại biên: Biểu hiện chóng mặt khi thay đổi tư thế, đây là dạng bệnh lành tính, chỉ làm cho người bệnh khó chịu trong sinh hoạt. Trường hợp bệnh nặng, người bệnh không thể đi đứng được, cơn chóng mặt thường kèm theo nôn ói rất nhiều và nôn kéo dài, ù tai, giảm thính lực, nặng đầu, khó tập trung…
RLTĐ trung ương: Là bệnh lý thường gặp với những biểu hiện của tình trạng thiểu năng tuần hoàn não, người bệnh đi đứng khó khăn, khi thay đổi tư thế bị choáng váng, chóng mặt, thỉnh thoảng kèm theo nôn ói. RLTĐ trung ương là do có sự tổn thương nhân tiền đình, tổn thương đường liên hệ của các nhân dây tiền đình ở thân não, tiểu não mà nguyên nhân có thể là do xơ mỡ động mạch mang máu đến nuôi não bộ.
Để xác định chính xác, người bệnh cần đi khám tại chuyên khoa tai, mũi, họng và thần kinh. Bác sĩ sẽ chỉ định đo não đồ hoặc làm các xét nghiệm hình ảnh như chụp X quang, CT Scanner hoặc phải sử dụng cộng hưởng từ (MRI) để tìm đúng nguyên nhân gây hội chứng RLTĐ. Ngoài ra, RLTĐ còn xuất hiện ở những người thường xuyên làm việc căng thẳng, ít ngủ, thường uống rượu bia hoặc phụ nữ ở giai đoạn tiền mãn kinh.
Phòng tránh nguy cơ
Để phòng ngừa hội chứng RLTĐ cách tốt nhất là thường xuyên tập thể dục thể thao. Đối với người làm việc văn phòng cần tránh ngồi quá lâu trước máy vi tính. Thường xuyên thực hiện các bài tập vận động vùng đầu, cổ gáy. Tập đẩy hơi vào 2 tai bằng cách dùng 2 bàn tay áp vào 2 bên tai mỗi ngày 50 – 100 lần. Uống nước thường xuyên khoảng 2 lít/ngày, nên để ly nước lọc trên bàn làm việc để tập thói quen uống nước thường xuyên, tránh để quá khát mới uống nước.
Khi bệnh nhân đã mắc hội chứng RLTĐ thì phải cẩn trọng trong tư thế sinh hoạt, như không nên quay cổ một cách đột ngột hoặc đứng lên ngồi xuống quá nhanh, tránh lái xe hoặc điều khiển máy móc có động cơ mạnh để tránh tiếng ồn. Bệnh nhân cũng cần giảm căng thẳng, lo âu, tránh đọc sách báo khi ngồi ôtô, nên ngồi hoặc nằm ngay xuống nếu cảm thấy chóng mặt… Trường hợp chóng mặt kèm theo các triệu chứng như nhức đầu đột ngột, sốt từ 380C trở lên, mờ mắt, không nhìn rõ sự vật hoặc nhìn đôi (thấy 1 thành 2), mất thị lực, giảm thính giác… thì nên đi khám ngay tại chuyên khoa tai mũi họng, thần kinh.
Bệnh nhân tuyệt đối không tự mua thuốc uống theo mách bảo, theo đơn thuốc cũ vì ngoài RLTĐ, các dấu hiệu này có thể báo hiệu những bệnh lý nặng như tai biến mạch não, u não, bệnh Parkinson, bệnh tim mạch, bệnh đa xơ cứng.
(Theo suckhoedoisong)

TRIỆU CHỨNG RỐI LOẠN TIỀN MÃN KINH

Hầu hết tất cả các phụ nữ khi bước vào độ tuổi 40 trở lên bắt đầu có các chứng rối loạn tiền , nhiều khi các chứng rối loạn khiến cho họ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, khó chịu, cáu gắt … ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và giao tiếp với những người xung quanh. Tuy nhiên nhiều người không nhận ra những biểu hiện này.
Kỳ quá độ mãn kinh của phụ nữ kéo dài trong bao lâu tùy thuộc vào mỗi cá nhân, có thể trong một năm, có khi kéo dài hai đến bốn năm. Khởi điểm và kỳ hạn thời kỳ tiền mãn kinh không có tiêu chí thời gian rõ ràng, có thể xảy ra sau tuổi 40 nhưng nhìn chung bình quân trên dưới 45 tuổi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tuổi bắt đầu có kinh nguyệt có xu hướng sớm dần, nhưng thay đổi về tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh lại không rõ ràng. Sự sớm, muộn của tuổi tiền mãn kinh có liên quan đến các nhân tố khí hậu, di truyền, tình hình kinh tế gia đình, xã hội,… Ngoài ra,  của phụ nữ và số lần sinh đẻ cũng có ảnh hưởng lẫn nhau, nên tiền mãn kinh xảy ra sẽ sớm hoặc muộn hơn.
Từ sau 40 tuổi,  bắt đầu giảm chức năng, hiện tượng phóng noãn không đều, và vì vậy bắt đầu mất quân bình về nội tiết tố. Estrogen bắt đầu giảm và thiếu hụt, không có progesteron. Từ đó các vấn đề rối loạn nội tiết tố kéo theo nhiều rối loạn khác sẽ xảy ra biểu hiện bằng các triệu chứng lâm sàng mà chị em phụ nữ sẽ cảm nhận được là:
Rối loạn cảm xúc: Đa số phụ nữ sẽ thấy tự nhiên cơ thể mình nóng nực, bốc hỏa. Thỉnh thoảng vã mồ hôi, nóng bừng mặt (có thể nhìn thấy mặt đỏ bừng), trống ngực đập dồn dập và hồi hộp, mệt mỏi, khó chịu. Tính tình chị em thay đổi, dễ cáu gắt, dễ giận hờn, tủi thân… và đi đến trầm cảm.
Tại cơ quan sinh dục nữ: Đây là cơ quan trực tiếp chịu ảnh hưởng của sự thiếu hụt nội tiết tố nữ. Rối loạn kinh nguyệt là một biểu hiện của  thường gặp nhất. Ngực teo nhỏ và chảy xệ, đi kèm với rối loạn kinh nguyệt là hiện tượng teo, khô vùng âm hộ, âm đạo khiến cho quan hệ tình dục khô rát khiến nhiều phụ nữ thấy sợ hãi, lo lắng và né tránh…
Tại hệ cơ xương khớp: Phụ nữ ở thời kỳ tiền mãn kinh thường bị nhức xương khớp, đau chân, tay là các dấu hiệu thường gặp nhất. Thoái hóa cột sống gây gai cột sống làm đau lưng, đau cổ cũng dễ xảy ra.
: Rối loạn tiền đình gây , đầu óc quay cuồng không thể đi lại được cũng là một triệu chứng thường gặp ở giai đoạn này.
Rối loạn chuyển hóa: Các chuyển hóa đường, đạm, muối, chuyển hóa mỡ và chất khoáng, đặc biệt là canxi. Từ đó chị em dễ bị béo phì, tăng cân, bụng hông to ra do phân bố mỡ không đồng đều… và loãng xương.
Hội chứng tiền mãn kinh là một phần trong đời sống sinh lý bình thường của người phụ nữ. Vì vậy, mỗi chị em cần trang bị những kiến thức cơ bản để tự chăm sóc mình. Tuyệt đối không tự ý sử dụng nội tiết tố thay thế mà cần được đi khám và tư vấn ở thầy thuốc chuyên khoa.

(Theo Suckhoedoisong)

Nguyên nhân và cách khắc phục yếu sinh lý ở nam giới

Yếu sinh lí ở nam giới là bệnh bao gồm các chứng như xuất tinh sớm, rối loạn cương dương, giảm ham muốn tình dục … Đây là vấn đề nhạy cảm và khá nhiều người lo lắng, không hiểu rõ về về bệnh và nếu gặp phải họ lại thấy lo sợ, không biết làm sao để hài lòng “.


Vậy nguyên nhân của yếu sinh lí ở nam giới là gì?
1.    Tuổi tác: tuổi càng cao, số người bị yếu sinh lí càng lớn,do khi tuổi cao, nội tiết tố kích dục testosteron giảm dẫn đên việc giảm ham muốn tình dục của nam giới
2.    Mắc các bệnh mãn tính: tiểu đường, tim mạch, suy thận, suy gan, bệnh về tâm thần thần kinh …
3.    Nguy cơ mắc bệnh yếu sinh lí cao ở những người bị phẫu thuật, chấn thương vùng đầu hay cột sống, bộ phận sinh dục… hoặc dùng thuốc trong thời gian quá dài như thuốc dạ dày, thuốc an thần…
4.    Uống quá nhiều rượu và thuốc lá cũng là nguyên nhân khiến nam giới bị yếu sinh lí.
5.    Do yếu tố tâm lí, ảnh hưởng của xã hội: lo lắng, sợ hãi quá mức, áp lực công việc học tập, stress kéo dài, cãi nhau, đau buồn quá mức….
Làm thế nào để khắc phục yếu sinh lí ở nam giới?
1.    Tăng cường dinh dưỡng bổ sung nhiều vitamin e và hoa quả, ăn giá đỗ, hành hoa, tôm … là những thực phẩm tốt cho dương vật.
2.    Bên cạnh đó cần phải luyện tập thể dục thể thao đều đặn, nghỉ ngơi đúng giờ giấc, những người có công việc cần phải ngồi lâu nên đứng dậy đi lại để máu được lưu thông.
3.    Tránh dùng các chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá…
4.    Thư giãn đầu óc, giảm stress, tránh các áp lực quá mức trong công việc và học tập
Hiểu biết về bệnh là cách đơn giản để phòng tránh nó, hãy thể dục thể thao hôm nay để có một cơ thể khỏe mạnh hơn.

(Theo suckhoe4u)

Dấu hiệu cảnh báo cơ thể có thể bị nhiễm HIV/AIDS

Dù đã xuất hiện rất lâu, nhưng bệnh /AIDS vẫn luôn được cộng đồng quan tâm đặc biệt về cách thăm khám, chăm sóc và điều trị. Để chẩn đoán bệnh HIV/ AIDS một cách chính xác, cách duy nhất là bạn nên đi xét nghiệm máu. Tuy nhiên, vẫn có một số dấu hiệu nổi bật cảnh báo rằng, bạn có thể đang bị vi rút HIV “tấn công” – theo các chuyên gia y tế thế giới.
1. Cảm sốt
Một trong những dấu hiệu đầu tiên trong giai đoạn cửa sổ (ARS) là bạn có thể bị sốt nhẹ (khoảng gần 39 độ C) và thường kèm theo các triệu chứng khác như: mệt mỏi, các tuyến bạch huyết sưng lên, đau cổ họng.
“Tại thời điểm này, vi rút HIV được di chuyển vào trong dòng máu và bắt đầu nhân rộng với số lượng lớn, gây nên các phản ứng viêm của hệ miễn dịch”, bác sĩ Carlos Malvestutto – giảng dạy về các bệnh truyền nhiễm và miễn dịch học tại khoa Dược, trường đại học Y NYU ở New York (Mỹ) cho biết.
2. Mệt mỏi
Khi hệ miễn dịch bị suy giảm sẽ khiến cho bạn cảm thấy mệt mỏi và lờ đờ. Đây cũng chính là một trong những dấu hiệu sớm của cơ thể bị nhiễm HIV. Ông Ron, 54 tuổi, điều hành quan hệ công chúng ở miền Trung Tây nước Mỹ, bắt đầu lo lắng về sức khỏe khi đột nhiên khó thở khi đi bộ. “Tôi làm gì cũng như bị đứt hơi,” ông nói. “Trước đó, tôi đã đi bộ ba dặm một ngày.” Ron đã kiểm tra và phát hiện mình dương tính với HIV 25 năm trước.
3.  Đau cơ bắp, đau khớp, sưng hạch bạch huyết
Giai đoạn ARS thường bị nhầm lẫn với bệnh cúm, tăng bạch cầu đơn nhân, hoặc nhiễm trùng khác do vi rút, bệnh giang mai hoặc thậm chí là viêm gan. Điều này không phải đáng ngạc nhiên vì các triệu chứng bệnh là như nhau, bao gồm đau khớp, đau cơ bắp và các tuyến bạch huyết sưng lên. Các hạch bạch huyết là một phần của hệ thống miễn dịch của cơ thể và có xu hướng bị viêm khi có nhiễm trùng, thường tại nách, háng và cổ.
4. Đau họng và đau đầu
Cũng giống như với các triệu chứng khác, đau họng và đau đầu thường là biểu hiện của giai đoạn ARS, theo Tiến sĩ Horberg. Nếu gần đây bạn có các biểu hiện hành vi tình dục không an toàn thì nguy cơ mắc bệnh cao, xét nghiệm HIV là điều nên làm. Hãy đi xét nghiệm vì lợi ích của chính bạn và cho những người khác vì HIV lây nhiễm nhất trong giai đoạn đầu tiên.
5.  Phát ban
Phát ban ngoài da có thể xảy ra sớm hoặc muộn trong quá trình nhiễm HIV/AIDS. Đối với Ron, ông thường xuyên bị dị ứng hay cảm lạnh. “Da như mọc nhọt vậy, với một số vùng màu hồng, ngứa, trên cánh tay tôi,” Ron nói. Các vùng phát ban cũng có thể xuất hiện trên các vùng của cơ thể. “Nếu phát ban không có lý do hoặc khó điều trị, bạn nên suy nghĩ đi xét nghiệm HIV”, tiến sĩ Horberg nói.
6. Buồn nôn, nôn, tiêu chảy
Theo tiến sĩ Malvestutto, có khoảng 30% – 60% số người bị buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy trong giai đoạn đầu đều dương tính với HIV. Những triệu chứng này cũng có thể xuất hiện trong và sau khi điều trị kháng vi rút, thường là hậu quả của đợt nhiễm trùng cơ hội. “Tiêu chảy không ngừng và không đáp ứng với cách điều trị thông thường có thể là một dấu hiệu cho thấy bạn bị HIV”, tiến sĩ Horberg nói.
7. Sút cân
Từng được gọi là triệu chứng “suy mòn do AIDS”, sút cân là một dấu hiệu của bệnh nặng hơn và có thể một phần do tiêu chảy nặng. “Nếu bạn đã giảm cân, điều đó có nghĩa là hệ thống miễn dịch thường khá cạn kiệt. Đây là trường hợp bệnh nhân mất rất nhiều cân nặng, ngay cả khi họ ăn càng ngày càng nhiều. Đây thường là giai đoạn cuối. Chúng tôi gặp rất nhiều trường hợp bị triệu chứng này”, tiến sĩ Malvestutto nói. Một người được xem là có hội chứng suy mòn nếu họ bị mất trọng lượng cơ thể từ 10% trở lên và đã có tiêu chảy, đau yếu hoặc sốt hơn 30 ngày, theo Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ.
Lần đầu tiên bị một cơn ho khan, Ron đã thấy có gì đó không ổn. Lúc đầu, ông bỏ qua nó vì nghĩ rằng chỉ vì mình không khỏe. Nhưng ông bị dai dẳng trong 1,5 năm và bệnh ho khan trở nên tồi tệ hơn. Benadryl, kháng sinh, thuốc hít đã không giải quyết được vấn đề. Tiến sĩ Malvestutto cho biết đó chính là dấu hiệu điển hình của các bệnh nhân nhiễm HIV nặng.
9. Viêm phổi
Ho và sút cân có thể là giai đoạn đầu của một đợt nhiễm trùng nghiêm trọng, gây ra bởi một loại vi trùng tưởng chừng vô hại nếu hệ thống miễn dịch của bạn còn khỏe mạnh. “Có rất nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội khác nhau và diễn biến khác nhau trên mỗi người”, tiến sĩ Malvestutto nói. Trong trường hợp của Ron, ông bị bệnh viêm phổi (PCP), hay còn gọi là “AIDS viêm phổi”, đây là bệnh cuối cùng đã đưa ông vào bệnh viện.
10. Đổ mồ hôi đêm
Khoảng một nửa số người bị đổ mồ hôi đêm trong giai đoạn đầu nhiễm HIV. Tương tự như tình trạng bốc hỏa xảy ra với phụ nữ mãn kinh. Tình trạng này có thể xảy ra nhiều hơn sau này khi bị nhiễm trùng, không liên quan đến tập thể dục hoặc nhiệt độ của căn phòng.
11. Móng thay đổi
Một dấu hiệu khác của nhiễm HIV giai đoạn cuối là thay đổi móng, chẳng hạn móng bị dày và cong, móng bị chia tách, hoặc sự đổi màu (đen hoặc đường nâu hoặc theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang).
Thường thì điều này là do một nhiễm trùng nấm, chẳng hạn như candida. “Bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm sẽ dễ bị nhiễm nấm”, tiến sĩ Malvestutto nói.
chan Dấu hiệu cảnh báo cơ thể có thể bị nhiễm HIV/AIDS
12. Nhiễm nấm men
Nhiễm nấm phổ biến trong giai đoạn sau là bệnh tưa miệng, nhiễm trùng miệng do Candida, một loại nấm men. “Đó là một loại nấm rất phổ biến và là một trong những là nguyên nhân gây nhiễm nấm ở phụ nữ”, tiến sĩ Malvestutto nói. “Chúng có xu hướng xuất hiện trong miệng hoặc thực quản, làm cho bệnh nhân khó nuốt”. Các nhiễm trùng rất khó chữa, nhưng cuối cùng đã được dọn sạch sau khi bệnh nhân bắt đầu uống thuốc để chống lại HIV.
13. Sa sút trí tuệ
Nhận thức bị suy giảm có thể là một dấu hiệu của bệnh mất trí nhớ liên quan đến HIV, thường xảy ra vào kỳ cuối trong quá trình của bệnh. Ngoài bị nhầm lẫn, khó tập trung, sa sút trí tuệ liên quan đến AIDS, còn có các vấn đề về trí nhớ và hành vi như hay tức giận, thậm chí có thể bao gồm các thay đổi về động cơ: trở thành vụng về, thiếu phối hợp…
14. Ngứa ran
Nhiễm HIV giai đoạn muộn cũng có thể gây ngứa ran ở tay và chân. “Đây là khi các dây thần kinh thực sự bị tổn thương”, tiến sĩ Malvestutto nói. Điều này được gọi là bệnh thần kinh ngoại vi, cũng xảy ra ở những người bị bệnh tiểu đường không kiểm soát. Những triệu chứng này có thể được điều trị bằng thuốc giảm đau và thuốc chống co giật như Neurontin (gabapentin).
Khi bị vi rút HIV “tấn công”, nguy cơ mắc bệnh kinh nguyệt không đều ở phụ nữ sẽ tăng cao, thường biểu hiện qua triệu chứng xuất kinh ít và thời gian ngắn hơn. Bên cạnh đó, Nhiễm vi rút HIV cũng khiến giai đoạn mãn kinh đến sớm (từ 47 đến 48 tuổi đối với phụ nữ bị nhiễm bệnh so với 49 đến 51 năm đối với phụ nữ không bị nhiễm)…Tuy nhiên, những thay đổi này không quan trọng bằng sự giảm cân và suy giảm sức khỏe của phụ nữ nhiễm HIV ở giai đoạn cuối.

(Theo PhunuOnline)