Thoái hóa khớp là chứng bệnh thường gặp nhất trong các bệnh lý của khớp. Bệnh tiến triển thầm lặng, không có biểu hiện gì cho đến một mức độ tổn thương nhất định của sụn khớp mới gây nên các triệu chứng trên lâm sàng như đau khớp, cứng khớp, dính khớp, teo cơ quanh khớp,... gây khó khăn trong lao động, sinh hoạt, giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí là tàn tật. Mặc dù các yếu tố di truyền và lão hóa không thể điều chỉnh được nhưng chúng ta vẫn có thể giảm nguy cơ thoái hóa khớp nếu có tác động tích cực vào các yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối sống...
Truy tìm nguyên nhân
Nguyên nhân thực sự của
bệnh thoái hóa khớp vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Các hiểu biết hiện tại cho
rằng sụn khớp phải chịu lực quá tải (yếu tố cơ học tấn công trực tiếp lên bề
mặt sụn) đồng thời gây nên sự hoạt hoá và sự giải phóng các chất trung gian hoá
học (cytokine các enzyme) gây thoái giáng chất cơ bản (yếu tố gây viêm), sau đó
gây phá hủy sụn khớp. Tuy nguyên nhân của bệnh chưa biết rõ nhưng người ta đã
biết được một số yếu tố nguy cơ gây nên bệnh thoái hóa khớp, đó là:
Yếu tố di truyền: Thoái
hoá khớp cũng như nhiều bệnh khác chịu chi phối rất lớn của di truyền, có những
chủng tộc người có tỷ lệ thoái hoá khớp cao hơn các chủng tộc khác.
Lão hóa: Các tế bào sụn
với thời gian lâu dần sẽ giảm khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi colagen và
chất cơ bản của sụn làm cho chất lượng của sụn, tính đàn hồi, tính chịu lực bị
giảm sút. Nói cách khác, thoái là hậu quả của quá trình lão hoá của sụn khớp,
do đó tần số mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Với tuổi thọ trung bình ngày càng cao
đồng nghĩa với số bệnh nhân bị bệnh thoái khớp ngày càng nhiều.
Yếu tố cơ học: Các vi
chấn thương tích tụ lại nhiều lần (hiện tượng quá tải) là yếu tố quan trọng
thúc đẩy quá trình thoái hoá tăng nhanh. Hiện tượng quá tải hay gặp trong
trường hợp như tư thế làm việc không hợp lý; tăng cân quá mức do béo phì, do
nghề nghiệp đặc biệt là các chấn thương thể thao như khớp bàn tay, khớp khuỷu
tay của công nhân vận hành búa máy, khoan cắt bê tông; khớp cổ chân của diễn
viên balê; đĩa đệm cột sống của vận động viên cử tạ...
Yếu tố dinh dưỡng: Thừa
cân, béo phì gây quá tải nên sụn khớp, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng, thiếu
chất khoáng (mangan, zinc), một số vitamin làm ảnh hưởng đến chất lượng của sụn
khớp.
Ngoài ra, các dị dạng
bẩm sinh và rối loạn phát triển như loạn sản sụn; trật khớp háng bẩm sinh, biến
dạng kiểu chân chữ X, chữ O; gù vẹo cột sống gây ra do những rối loạn làm thay
đổi đặc tính của sụn và làm hư hại bề mặt khớp.
Cần làm gì để trì hoãn quá trình thoái hóa khớp?
Vì chưa biết rõ nguyên
nhân của bệnh và bệnh diễn tiến âm thầm không triệu chứng một thời gian dài
trước khi bộc lộ đầy đủ trên lâm sàng nên mục đích của phòng bệnh là tác động
vào các yếu tố nguy cơ như đã nói trên càng sớm càng tốt. Nguyên tắc là làm chậm
quá trình hủy hoại khớp, nhất là ngăn sự thoái hóa sụn khớp, duy trì khả năng
vận động, cải thiện chất lựợng cuộc sống. Trong các yếu tố cần điều chỉnh thì
yếu tố di truyền và yếu tố lão hoá là những yếu tố mà chúng ta không thể điều
chỉnh được. Ngược lại, các yếu tố còn lại (yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối
sống...) chúng ta có thể điều chỉnh được bằng các biện pháp sau:
Tránh cho khớp bị quá
tải: tư thế làm việc hợp lý, không nên làm việc ở một tư thế kéo dài mà nên
thay đổi tư thế thường xuyên, nên kết hợp những khoảng nghỉ ngắn 5-10 phút
trong khi làm việc; giữ cân nặng ở mức hợp lý, giảm cân nếu béo phì; Tập thể
dục thường xuyên và vừa sức như bơi lội, đạp xe đạp, đi bộ khoảng 30 -60
phút/ngày, tập dưỡng sinh, tập các động tác tập tăng cường sức mạnh của các cơ
quanh khớp, làm giảm lực tác động trên bề mặt sụn.
Phát hiện và điều trị
kịp thời các chấn thương do thể thao, do nghề nghiệp, sau đó là sử dụng các
biện pháp lý liệu pháp, phục hồi chức năng để khớp trở về trạng thái sinh lý
bình thường, tránh diễn biến xấu dẫn đến thoái hoá khớp. Với những người làm
nghề có nguy cơ thoái hoá khớp cao thì tìm kiếm các biện pháp thích nghi với
điều kiện làm việc, với nguyên tắc là tránh cho khớp ít bị quá tải nhất có thể.
Dinh dưỡng hợp lý: ăn
uống đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhất là các chất khoáng, các
vitamin như rau quả tươi, giàu các chất chống ôxy hoá.
Phát hiện và sửa chữa
các dị dạng bẩm sinh, tư thế xấu, lệch trục khớp như chỉnh lại trục khớp, gọt
giũa xương chày trong lệch trục khớp gối, sửa chữa lại các thiểu sản khớp háng
bẩm sinh.